title

KHOAN DUNG, NHÂN ÁI HỒ CHÍ MINH BIỂU TƯỢNG CỦA VǍN HOÁ HÒA BÌNH VIỆT NAM
Thursday, 05/12/2024, 10:42 AM
Cỡ chữ Màu chữ image

Nhân loại đang giã từ thế kỷ XX, một thế kỷ đầy biến động với các cuộc cách mạng rung chuyển thế giới, làm thay đổi số phận các dân tộc. Thế kỷ XX cũng là thế kỷ của hàng trǎm cuộc chiến tranh lớn nhỏ mà tiêu biểu là hai cuộc đại chiến thế giới khủng khiếp, trong đó lần đầu tiên bom nguyên tử được đưa ra sử dụng để hủy diệt con người. Cơn hãi hùng trước vũ khí giết người hàng loạt được tích lũy ngày càng nhiều ngày càng hoàn thiện còn chưa qua khỏi thì loài người lại đang phải lo đối phó với một đe dọa mới: sự kích động và trỗi dậy của những tư tưởng cực đoan, phát xít, chủ nghĩa khủng bố,... có nguy cơ kéo loài người vào vòng xoáy của một cơn lốc bạo lực mới.

 

 

Trong bối cảnh ấy, để bước vào thế kỷ XXI, nhân loại không có khát vọng nào khác hơn là được sống trong hòa bình, hữu nghị, hiểu biết và thông cảm lẫn nhau để cùng hợp tác và phát triển. Vì vậy, "Nâng cao hơn nữa lòng khoan dung là nhiệm vụ của toàn nhân loại".

Việt Nam là một dân tộc yêu hòa bình, có truyền thống khoan dung, nhân nghĩa, hòa hiếu. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Dân tộc ta là một dân tộc giàu lòng đồng tình và bác ái" và chính Người là đỉnh cao, là tinh hoa của tinh thần khoan dung, nhân ái Việt Nam.

Khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh biểu hiện ở lòng yêu thương sâu sắc đối với con người, ở cái nhìn rộng lượng đối với những giá trị khác biệt với mình, ở sự tôn trọng niềm tin của người khác, không áp đặt ý kiến của mình lên người khác, xa lạ với mọi thái độ kỳ thị, cuồng tín, giáo điều.

Khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh cũng còn biểu hiện ở niềm tin của Người vào phấn tốt đẹp, phần thiện trong mỗi con người, dù nhất thời họ có lầm lạc, nhỏ nhen, thấp kém... Người đã dạy cho chúng ta một cách nhìn lạc quan về con người: "Mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng"1. Người tin rằng với sức mạnh cảm hóa của cách mạng và của giáo dục, những con người nhất thời lầm lạc vẫn có thể cải tạo, vươn lên, trở thành có ích cho xã hội, bởi như Người quan niệm: "Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên".

Khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh được xây dựng trên nguyên tắc công lý, chính nghĩa, tự do, bình đẳng, không chấp nhận thỏa hiệp vô nguyên tắc với tội ác và bất công xã hội, với tất cả những gì chà đạp lên quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc" của mỗi con người và mỗi dân tộc. Khi chủ nghĩa thực dân đã dùng hành động bạo lực của kẻ mạnh để đàn áp kẻ yếu thì không có cách nào khác là phải dùng bạo lực cách mạng để giành và giữ lấy chính quyền. Người nói: "Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân"2.

Cũng bởi tha thiết với hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng, nhưng ta càng nhân nhượng, kẻ thù càng lấn tới, buộc ta phải cầm súng đứng lên tự vệ với tinh thần "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ". Trong chiến đấu Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn giáo dục nhân dân ta biết phân biệt bọn thực dân xâm lược Pháp với nhân dân Pháp. Ngay trong hàng ngũ bọn đi xâm lược, Người cũng có sự phân biệt giữa bọn thực dân phản động Pháp với những người còn có lương tri trong hàng ngũ của họ nhằm chỉa mũi nhọn vào bọn đầu sỏ hiếu chiến nhất.

Người đã làm hết sức mình để tránh không gây ra mối hận thù đối với dân tộc Pháp, một dân tộc mà Người luôn luôn yêu mến và kính trọng.

Với Hồ Chí Minh, dụng binh là việc nhân nghĩa, nên Người đã tìm mọi cách để hạn chế đến mức thấp nhất những thương vong trên chiến trường, cho quân ta và cho cả quân địch. Người nói một cách xúc động: "Trước lòng bác ái thì máu Pháp hay máu Việt đều là máu, người Pháp hay người Việt đều là người"3.

Để chiến thắng địch, ta phải từng bước tiêu diệt, làm hao mòn sinh lực địch, nhưng mục tiêu của ta là đánh bại, đánh sập ý chí xâm lược của địch, "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", chứ không coi việc đánh tiêu diệt hoàn toàn quân địch trên chiến trường là biện pháp duy nhất để kết thúc chiến tranh. Ta hiểu vì sao Người không tán thành gọi một trận đánh chết nhiều người là một trận đánh "đẹp". Người từng nói: "Đánh mà thắng là giỏi, nhưng không đánh mà thắng lại giỏi hơn". Theo tư tưởng binh pháp của cha ông, Người chủ trương "đánh vào lòng là hơn hết, đánh vào thành trì là thứ hai"4. Vì vậy, Người rất coi trọng binh vận và địch vận, "khéo ngụy vận thì đó cũng là một cách tiêu diệt sinh lực địch"5.

Ngày 10-6-1947, được tin tướng R.Xalǎng - một người đã từng tháp tùng Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chuyến sang thǎm nước Pháp - vừa được cử sang Đông Dương nhận thức Tổng chỉ huy quân đội Pháp thay cho tướng Valuy, Người liền gửi cho Xalǎng một bức thư, trong đó có đoạn viết: " Chúng ta đã từng là những người bạn tốt... Nhưng hoàn cảnh ngoài ý muốn đã biến chúng ta thành hai kẻ đối địch.

Điều đó thật đáng tiếc? ... Về phần tôi, bổn phận thiêng liêng của một người dân yêu nước buộc tôi phải chiến đấu vì Tổ quốc và đồng bào mình. Còn về phía Ngài, trách nhiệm quân nhân cũng buộc Ngài phải làm những điều mà trái tim Ngài không muốn.

Vì chúng ta buộc phải chiến đấu, thì các ngài hãy tỏ ra là những chiến binh hào hiệp, những đối thủ quân tử, trong khi chờ đợi chúng ta lại trở thành bạn hữu của nhau.

Vì tình yêu thương con người, lòng nhân đạo và nhân danh tình bạn của chúng ta, tôi yêu cầu ngài nghiêm cấm binh lính Pháp sát hại dân lành, hãm hiếp phụ nữ, đốt phá làng mạc, phá hủy nhà thờ, đền niiếu như họ vẫn làm từ trước tới nay.

Tôi đảm bảo với Ngài rằng binh lính và thường dân Pháp ở chỗ chúng tôi được đối xử rất tử tế. Tôi hy vọng người của chúng tôi trong tay các ngài cũng được đối xử như vậy"6. Có lẽ, trên thế giới, hiếm có một bức thư gửi cho tướng giặc trước trận đánh lại được viết với một vǎn phong hòa ái, lịch thiệp, cao thượng và chính trực đến như vậy.

Về phần mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn nhắc nhở đồng bào và chiến sĩ của ta cần nêu cao lý tưởng chính nghĩa, nhân đạo hoà bình, phải có sự đối xử khoan hồng với tù binh và kiều dân Pháp, để "làm cho thế giới biết rằng ta là một dân tộc vǎn minh, vǎn minh hơn bọn đi giết người, cướp nước"7. Người đã chỉ thị cho Bộ tài chính hãy cấp cho mỗi binh lính và thường dân Pháp bị bắt mỗi tháng 200 đồng, trong khi mức ǎn của bộ đội ta chỉ có 150 đồng/tháng, với lý do "ta có thể chịu kham khổ được nhưng đối với họ cần phải rộng rãi hơn"8. Bản thân Người nhiều lần viết thư cho tù binh và kiều dân Pháp bị bắt giữ, tỏ ý ái ngại cho tình thế hiện tại của họ, vẫn coi họ như là bạn hữu. Đến thǎm trại tù binh trong chiến dịch Biên giới, thấy một đại úy quân y Pháp ở trần, đang run lên vì lạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cởi chiếc áo Người đang mặc, trao cho anh ta.

Khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh đã có sức cảm hóa sâu sắc đối với kẻ thù. Nhiều sĩ quan và binh lính Pháp đã phản chiến, bỏ ngũ, hoặc sang chiến đấu dưới ngọn cờ đại nghĩa của Hồ Chí Minh.

Đối với nhân dân ta, Người khuyên phải đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi: "Nǎm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài... Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta... Đối với những đồng bào lạc lối, lầm đường, ta phải dùng tình thân ái mà cảm hoá họ..."9.

Trên tinh thần đó, đối với những quan lại cũ, trong thư gửi các đồng chí tỉnh nhà ngày 17-9-1945, Người nhắc nhở: "Chúng ta không nên đào bới những chuyện cũ ra là án mới. Đối với những người không nguy hiểm lắm thì nên dùng chính sách cảm hóa, khoan dung, không nên bắt bớ lung tung, không nên tịch thu vô lý, làm cho dân chúng kinh khủng"10.

Ngay với những người từng có nợ máu với cách mạng, vì lợi ích của đoàn kết quốc gia, Người vẫn tỏ rõ một tinh thần khoan dung, đại lượng. Người nhắc nhở chúng ta cần phải vượt qua những thiên kiến hẹp hòi: "Sông to, bể rộng thì bao nhiêu nước cũng chứa được vì độ lượng của nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đáy cạn thì một chút nước cũng đã tràn, vì độ lượng của nó hẹp và nhỏ"11. "Chỉ sợ lòng mình không rộng chứ không sợ người ta không theo mình".

Chính sách đại đoàn kết dân tộc và tấm lòng khoan dung, độ lượng của Bác Hồ đã làm thất bại mọi âm mưu chia rẽ của kẻ thù đã cảm hoá được nhiều nhân sĩ, trí thức có tên tuổi, kể cả các quan lại cao cấp của chế độ cũ, một lòng, một dạ đi theo cách mạng đến cùng, không quản ngại gian khổ, hy sinh như Khâm sai đại thần Phan Kế Toại, Thượng thư Bùi Bằng Đoàn, Đốc lý Hà Nội Trần Vǎn Lai...

Khi Pháp trở lại đánh chiếm Nam Bộ, không tránh khỏi có một số người bị dụ dỗ đi theo chúng. Nhờ có chính sách khoan dung, độ lượng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà nhiều đồng bào, trong đó có không ít đồng bào công giáo, bị lừa gạt đã tự nguyện quay về với cách mạng và kháng chiến. Họ đã viết thư lên cảm ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh, hứa thành khẩn hối lỗi, nguyện ra sức phụng sự Đức Chúa, phụng sự Tổ quốc.

Trong kháng chiến chống Pháp, có một số đồng bào, do hạn chế về nhận thức, hoặc do yếu đuối, ngã lòng, thiếu niềm tin, đã bỏ kháng chiến, vào thành. Một số cán bộ và nhân dân ta cho "dinh tê" là Việt gian, phản quốc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài trên báo Nhân dân, giải thích: "Người "dinh tê" không phải muốn phản bội. Nhưng vì họ kém lòng tin tưởng vào lực lượng tất thắng của dân tộc. Họ thiếu tin tưởng vào sức chịu đựng của mình. Họ không trông thấy xa"12.

Không phải chỉ đối với người lầm lạc mà ngay cả với những người đối lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vẫn thể hiện một tấm lòng độ lượng, một tinh thần khoan dung hiếm có khi họ đã ǎn nǎn, hối cải hoặc đã lâm vào cảnh bần cùng, thất thế.

Chỉ ít ngày sau lễ ra mắt của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử ông Hoàng Minh Giám đi tìm Trần Trọng Kim, nguyên Thủ tướng chính phủ bù nhìn do Nhật lập nên ngày 17-4-1945, nghe nói vừa mới ra Hà Nội. Nhưng tiếc rằng khi ông Giám tìm được đến nhà thì Trần Trọng Kim đã rời khỏi Hà Nội rồi.

Cũng trong thời gian đó, bằng quyết định cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lệnh trả lại tự do cho Ngô Đình Diệm, khi ấy bị bắt đưa về Hà Nội. Ngày 15-1-1946, Người đã tiếp Ngô Đình Diệm tại Bắc Bộ phủ, thuyết phục hắn đi với nhân dân, hợp tác với Chính phủ. Nhưng Ngô Đình Diệm với đầu óc chống cộng sản, chống nhân dân quyết liệt đã từ chối.

Tiêu biểu cho tinh thần khoan dung Hồ Chí Minh là lời tuyên bố của Người về cái chết của bác sĩ Nguyễn Vǎn Thinh. Nguyễn Vǎn Thinh là một trí thức được nhiều người biết đến ở Nam Bộ. Do ham muốn địa vị và cũng có thể do bị dụ dỗ, lừa gạt, ông ta đứng ra nhận chức Thủ tướng bù nhìn của cái gọi là "Xứ Nam Kỳ quốc", cộng tác với địch trong âm mưu chia cắt đất nước, chống lại độc lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc ta. Việc làm phản bội của Thinh đã bị nhân dân ta phỉ nhổ, cả nước lên án. Nhưng dù sao ở ông ta vẫn còn một chút lương tri của người trí thức, nên biết hổ thẹn và sám hối, cuối cùng đã tự vẫn để trả giá cho sự lầm lạc của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Về chính trị, ông Nguyễn Vǎn Thinh đã đi lầm đường, nên đã bị cô lập, nhưng ông chết đi, dù sao nước Việt Nam cũng mất một nhà bác sĩ mà nước Việt Nam đang cần những nhân tài như ông để kiến thiết"14.

Chúng ta đều biết sự khoan dung của Hồ Chí Minh đối với Nguyễn Hải Thần khi ông ta từ bỏ nhiệm vụ, chạy theo quân Tưởng, sang Quảng Châu sinh sống, ngày càng lâm vào hoàn cảnh khốn đốn. Sau hoà bình lập lại bạn hỏi ta định xử trí với ông ta như thế nào? Với tấm lòng khơan dung, độ lượng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị với Thủ tướng Chu Ân Lai chu cấp cho ông ta mỗi tháng 100 nhân dân tệ cho đến cuối đời. Số tiền đó sẽ lấy từ khoản viện trợ không hoàn lại của Trung Quốc giúp nhân dân ta khôi phục kinh tế sau chiến tranh.

Tinh thần nhân ái, khoan dung của Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là một sách lược mà là sự kế tục và phát triển truyền thống nhân ái, bao dung của dân tộc ta qua hàng ngàn nǎm lịch sử. Tư tưởng đó đã được biểu hiện nhất quán trong đường lối, chính sách của Đảng ta, qua thái độ ứng xử của Người đối với những người lầm lạc bằng tất cả sự chân thành vì nghĩa lớn của dân tộc. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, khoan dung cũng là một biểu hiện sức mạnh của cách mạng, chỉ có những cuộc cách mạng chân chính, được lòng dân mới có sức thuyết phục, cảm hóa đối với trái tim và khối óc của quần chúng, bao gồm cả những người lầm lạc, chống đối.

Trong một lần tiếp Đoàn đại biểu công an nước Cộng hòa Cu Ba, tháng 8-1966, Người nói đại ý: Ta được lòng dân thì ta không sợ gì cả. Đối với những kẻ chống đối, ta có thể tịch thu tài sản của họ, nhưng ta không tịch thu được bộ óc của họ. Vì vậy người cách mạng phải lấy tấm lòng vì đại nghĩa mà thuyết phục, cảm hóa họ.

Như vậy, đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân ái, khoan dung, độ lượng là để cảm hoá lòng người, để thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tạo sức mạnh chiến thắng kẻ thù và xây dựng đất nước. Phát biểu tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên Việt toàn quốc, tháng 1-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà, đoàn kết với họ"15.

Tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh đang được ĐCS Việt Nam kế thừa và phát triển trong tình hình mới.

Vừa qua, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu một lần nữa đã nhắc lại: "Hễ là người Việt Nam, ai cũng có lòng yêu nước, đều là con cháu Lạc Hồng ... Dân tộc ta là dân tộc hòa hiếu, muốn tắt muôn đời chiến tranh. Chúng ta đã long trọng tuyên bố với thế giới: "Việt Nam muốn là bạn của tất cả các dân tộc, tất cả các quốc gia vì hoà bình, độc lập và phát triển"16.

Phát huy truyền thống hoà hiếu của dân tộc tinh thần khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam mãi mãi ghi nhớ và làm theo lời di huấn của cha ông: "Thái bình nên gắng sức Non nước vững ngàn thu?".

Song Thành

# of Views: 14